#khaisang
Nguyễn Gia Thiều:Ông là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học, triết học và còn tinh thông âm nhạc. Sở trường âm nhạc của ông là các bài ca, bài tán và là tác giả của bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Ông còn tinh thông hội họa và vẽ rất đẹp. Bức tranh lớn của ông là Tống sơn đồ đã dâng vua xem và được vua khen thưởng. Ông am tường cả kiến trúc và trang trí nên được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích ở Bắc Ninh. Đáng tiếc là các công trình nghệ thuật của ông đến nay không còn được lưu lại.
Sự nghiệp văn chương của ông cũng để lại nhiều tác phẩm có giá trị cao. Về thơ chữ Hán, ông có hai tập là Ôn Như thi tập khoảng một ngàn bài nhưng đến nay đã bị thất lạc. Về tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập hiện chỉ còn vài bài chép trong tập Tạy ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.
Nguyễn Gia Thiều sinhngày 22 tháng 3 năm 1741 (nhằm ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu),ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình vào cuối thời vua Lê chúa Trịnh.
Cha ông là Nguyễn Gia Cư, một quan võ được phong tước Đạt Vũ Hầu và mẹ là Quỳnh Liên quận chúa. Ông gọi chúa Trịnh Cương là ông ngoại vì Quỳnh Liên quận chúa là con gái của chúa Trịnh Cương. Ông nội là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Ông gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ ông là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.
Năm lên sáu tuổi, ông đã được vào học trong phủ chúa vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự. Năm 1782, ông được thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Ông là một người tài năng đa dạng, có công với triều đình nên được chúa Trịnh tin dùng và phong tước Ôn Như Hầu.
Trong thời gian làm tổng binh ở Hưng Hóa, dù có công và được khen thưởng nhưng ông vẫn thường bỏ về nhà riêng ở Hồ Tây để làm thơ và bàn luận về triết học với bạn bè. Có người nói rằng chúa Trịnh không còn tin dùng ông nữa nên đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa vì thế mà ông chán nản bỏ về nhà sống cuộc đời tài tử, làm thơ, uống rượu và cả tu hành với hiệu là Như Ý Thiền. Ông còn những biệt hiệu khác là Hy Tôn Tử, Tân Thi Viện Tử và Sưu Nhân.
Cung oán ngâm khúc là tác phẩm kiệt xuất của Nguyễn Gia Thiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm 356 câu thơ làm theo thể song thất lục bát[2]. Đây là một bài ca ai oán cho thân phận của một người cung nữ tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua ân sủng, yêu thương thắm thiết nhưng chẳng bao lâu lại bị bỏ rơi. Ông đã dùng ngòi bút của mình với lối văn độc thoại để giải bày tâm trạng đau đớn của người cung nữ khi bị nhà vua ruồng bỏ. Nàng ý thức rõ được phẩm chất và tài năng của mình nên lặng lẽ tố cáo cuộc sống xa hoa phe phởn của vua chúa đã biến người phụ nữ thành món đồ chơi để thỏa mãn dục vọng một cách vô đạo. Sống trong cung cấm với nỗi cô đơn, tù túng nàng muốn thoát ra ngoài để trở về với cuộc sống “cục mịch nhà quê” của ngày xưa nhưng nàng vẫn bị giam cầm với bao nỗi niềm chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát khao được sự ân sủng nhỏ nhoi của vua như ngày nào nhưng đó chỉ là một ước mơ đầy tuyệt vọng. Và nàng nhận ra cõi đời này chỉ là những phù du, hư vọng, không thật như vừa tỉnh một giấc mơ.
Cung oán ngâm khúc được xem như một bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến đã chà đạp con người thông qua là tiếng thét ai oán của một trang tố nữ tài sắc vẹn toàn và tình cảm trong sáng, cao quý mà bị ruồng bỏ. Hình ảnh cung nữ chính là nạn nhân của chế độ phong kiến mang đầy bản chất ích kỷ hẹp hòi đến vô đạo của vua chúa đã biến họ thành món đồ chơi để thỏa mãn thú tính rồi ném bỏ không thương tiếc vào quên lãng. Nguyễn Gia Thiều đã thấy được cảnh này khi lui tới trong phủ chúa nên cảm thương cho nỗi lòng của người cung nữ. Với tấm lòng nhân đạo ông đã dồn hết tâm huyết và văn tài của mình để viết nên một tác phẩm bất hủ, đau đớn đến xé lòng về cuộc đời nàng. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm không chỉ dừng lại ở đó mà còn mang một ý nghĩa sâu xa hơn là “Nguyễn Gia Thiều đã mượn lời cung nữ để nói lên tâm sự bế tắc của mình, cũng là sự bế tắc của lớp nhà Nho thời đại ông, đầy chán chường và mệt mỏi.”[3]
Qua tác phẩm Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều bày tỏ tâm sự của một kẻ sĩ đã nhìn thấy bao tang thương, thăng trầm, biến đổi của cuộc sống mà chính ông là người đã sống trong những biến cố ấy. Sự bế tắc của một thời đại với những tấm bi kịch đến tê tái trên thân phận kiếp người thông qua lời của người cung nữ đã vẻ nên một bức tranh ảm đảm cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhưng dường như ông chỉ mượn tâm sự của người cung nữ để nói lên nỗi niềm u uất của ông và cũng là của bao nhiêu người khác phải chịu nhiều bất công dưới chế độ phong kiến. Đến khi nỗi u uất đến đỉnh điểm ông đã lãng quên tâm trạng của người cung nữ mà trực tiếp bộc lộ về suy nghĩ của mình về kiếp người, về cuộc đời với triết lý hư vô rải rác trong tác phẩm và vô cùng sắc xảo đến từng chi tiết cũng như câu chữ.
Hư vô ở đây không phải Không cũng không phải Có.Ý thức, sự suy nghĩ thì bị giới hạn trong thế giới nhị nguyên :có và không. Nếu vượt có,không,lòng không dính mắc, sẽ trực nhận được Hư Vô. Chúng ta đã quá quen thuộc và trọn tin nơi ý thức, Hư vô không phải tư duy mà được, càng tư duy con người càng sai lầm và ý thức của con người không phải là một thứ dễ tin tưởng. Theo nhà Phật khi con người chưa giải thoát thì mọi tư duy của con người vẫn bị vô minh chi phối. Tất cả mọi khái niệm đều bị giới hạn và hư vô nếu có khái niệm thì cũng không chính xác. Càng lăn xăn suy nghĩ về khái niệm càng xa lìa Hư Vô, tánh Không,Phật tính,bản thể vũ trụ. Nói chung hư vô là không có gì tuyệt đối, không thật có cũng không thật không, là hư vọng, giả hợp thoát ra hẳn tư duy của con người và hư vô nó có những biểu hiện của nó. Và trong tác phẩm Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều có mang những biểu hiện của hư vô.