Ký ức dân tộc bị mất: Pháp bảo vệ VN chống quân Thanh xâm lược và hiệp ước Pháp-Thanh làm cơ sở cho biên giới VN-TQ ngày nay

MỘT GÓC CỦA LỊCH SỬ BỊ CHE KHUẤT, NHỮNG TƯỞNG TƯỢNG LỊCH SỬ VÀ MỘT CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ BỊ BỎ QUÊN
TS. Nguyễn Lương Hải Khôi, trên Tạp chí US Vietnam Review (ĐH Oregon, USA.

Alexandre de Rhodes và sự tưởng tượng về lịch sử cận đại của nền sử học Việt Nam

Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.

Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.

Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị đương đại.

1. Tưởng tượng về Alexandre de Rhodes

Năm 1971, Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, trong quyển “Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de Rhodes thể hiện một âm mưu có tính thực dân của mình:

“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”

Uỷ ban này chú thích rằng câu trích này được trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient” (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110.

Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy trong tài liệu nói trên.

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế nghiên cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó. Thành ra từ đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy về Alexandre de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu như Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.

Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói đến việc xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương Đông, đem về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldats” là “binh lính” quân sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm năm, còn Nguyễn Khắc Xuyên coi “soldats” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà chỉ “chiến binh Phúc âm”, tức giáo sỹ truyền đạo. Số người hiểu theo cách hiểu của Cao Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Khắc Xuyên, các cuộc tranh luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldats” hầu như không đặt từ này trong toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo” để xem tinh thần thực sự của khái niệm cũng như của sách này là gì, có liên quan đến việc đánh chiếm thuộc địa hay không.

Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes sở dĩ khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về lịch sử cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Uỷ Ban khoa học xã hội Việt Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng ******** Việt Nam) lấy được miền Bắc.

2. Tưởng tượng về thế kỷ XIX

Tôi có làm “phỏng vấn” nhỏ một số bậc thức giả, bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy nhất: Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối với Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?

Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung.

Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.

Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.

3. Câu chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai “gọng kìm lịch sử” Pháp – Mãn Thanh

Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.

Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu, nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.

Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.

Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.

Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.

Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.

Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều – chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi Sách giáo khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.

Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.

Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.

Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung.

Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh Phúc.

4. Lịch sử của sự phân đôi phải / trái

Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.

Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng ******** Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng ******** ra đời, mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng ******** Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng.

Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.

5. Phục hồi ký ức?

Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách đã bị dán nhãn “thực dân phong kiến” từ 1955, bị cấm ở miền Bắc sau đó và toàn quốc sau 1975, và chỉ được tái bản có kiểm duyệt sau 1990. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp – Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”.

Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.

Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.

Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.

Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp – Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.

P/s:
Nguyễn Lương Hải Khôi nhận bằng tiến sỹ triết học tại Đại học Nihon, Tokyo, Nhật Bản năm 2014, giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm TpHCM từ 2005, research fellow tại Đại học Nihon (2008), Đại học Hiroshima (2015), Đại học Johns Hopkins (2017), hiện là research fellow tại Viện Nghiên cứu Toàn cầu (Global Studies Institute), Thư ký Tòa soạn của Tạp chí US Vietnam Review, Đại học Oregon.

Nguồn:
 
TRUNG HOA ÂM MƯU CHIA HAI BẮC KỲ

Ngày 27-10-1882, Paris thông báo cho đại sứ Pháp ở Trung Hoa là Bourée biết, trong phiên họp ngày 21-10, chính phủ Pháp quyết định bảo hộ Việt Nam, để Bourée nói chuyện với Bắc Kinh. Trước sự cương quyết của Pháp, vào đầu tháng 11-1882, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang hay Li-Hung-Tchang), một viên chức cao cấp trong Tổng lý nha môn, cơ quan phụ trách ngoại giao của triều đình Trung Hoa, đề nghị với Bourée rằng Trung Hoa và Pháp chia nhau bảo hộ Bắc Kỳ. Bourée báo cáo sáng kiến của Lý Hồng Chương về Pháp.

Lúc đó, các chính phủ Paris kế tiếp nhau, đều muốn chiếm Bắc Kỳ, nhưng vừa ngại tốn kém vì Quốc hội Pháp không chuẩn chi, vừa ngại đụng chạm với Trung Hoa, nên đường lối của chính phủ Pháp không rõ ràng và hay thay đổi. Ngày 5-12-1882, Bourée cho Paris biết là Bắc Kinh đã ra lệnh quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ về Vân Nam và Quảng Tây. Cũng trong ngày nầy, bộ Hải quân và Thuộc địa ra Pháp lệnh cho soái phủ Sài Gòn tránh đụng chạm với quân Trung Hoa. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tr. 291)

Ngày 20-12-1882, tại Thiên Tân (Tianjin hay Tientsin), Bourée và Lý Hồng Chương ký tạm ước Thiên Tân về Bắc Kỳ, theo đó Trung Hoa chiếm phía bắc sông Hồng (vùng núi non và hầm mỏ), và Pháp chiếm phía nam sông Hồng (vùng châu thổ, sản xuất nông phẩm). Lào Cai được xem là một thương cảng Trung Hoa, nhưng người Pháp được quyền tự do buôn bán với Vân Nam.(4) tạm ước Thiên Tân thật ra rất mơ hồ, chỉ lấy sông Hồng chia hai địa phận, nhưng chưa vạch ra cụ thể ranh giới giữa hai bên Pháp và Trung Hoa ở Bắc Kỳ.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu, Tạm ước Thiên Tân bị Pháp bãi bỏ. Nguyên tại Paris, chính phủ Charles Duclerc sụp đổ ngày 22-1-1883. Armand Fallières tạm thay một thời gian, thì Jules Ferry trở lại làm thủ tướng lần thứ hai ngày 21-2-1883. Lúc đó, Pháp dứt khoát về vấn đề Ai Cập (Egypt) vì nước nầy đã do nước Anh đô hộ từ 1882. Jules Ferry dồn nỗ lực về phía Việt Nam.

Việc làm đầu tiên về Việt Nam của chính phủ Jules Ferry là bãi bỏ tạm ước Thiên Tân mà Bourée đã ký với Lý Hồng Chương, vì theo chính phủ nầy, tạm ước đã giành cho Trung Hoa quá nhiều quyền lợi ở Bắc Kỳ. Quyết định bãi bỏ được Pháp báo cho Trung Hoa biết ngày 5-3-1883. Hai tháng sau, đại sứ Bourée bị triệu hồi. Chính phủ Pháp đưa Tricou, nguyên đại sứ Pháp tại Nhật, sang Bắc Kinh làm đại sứ từ ngày 1-6-1883.

Ngày 18-8-1883, đại sứ Trung Hoa là Tăng Kỷ Trạch giao cho chính phủ Pháp lập trường sáu điểm của Trung Hoa về Bắc Kỳ, theo đó: (1) Ngoại trừ Nam Kỳ, Pháp không được chiếm bất cứ phần lãnh thổ nào của An Nam; (2) An Nam là chư hầu của Trung Hoa; (3) Pháp phải triệt binh khỏi những nơi đã chiếm của An Nam, mở một số hải cảng để giao thương, và các cường quốc có quyền đặt tòa lãnh sự tại các cảng nầy; (4) Sông Hồng phải được mở rộng để giao thương; (5) Trung Hoa sẽ bảo đảm việc tự do giao thương trên sông Hồng; (6) Những hòa ước giữa Pháp và Việt Nam phải được Trung Hoa chấp thuận.(Vũ Ngự Chiêu, http://sđd.tt/ 328-329.)

Trong khi đó, Pháp đưa quân từ Bắc Kỳ, tiến đánh cửa Thuận An (Huế) ngày 20-8-1883. Thất bại, triều đình Huế đành xin điều đình và ký hòa ước Quý Mùi ngày 25-8-1883, gồm 27 điều khoản, trong đó điều 1 viết rằng “Nước Nam nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp với những hậu quả của mối tương giao nầy theo luật pháp ngoại giao Âu Châu, nghĩa là nước Pháp chủ trương mọi sự giao thiệp của nước Nam với các nước ngoài, kể cả nước Tàu, và nước Nam có giao thiệp ngoại giao với nước nào thì chỉ do một mình nước Pháp môi giới mà thôi.”

Bảo hộ xong Việt Nam, hai ngày sau, ngoại trưởng Pháp từ chối yêu cầu sáu điểm của Trung Hoa trong thư trả lời ngày 27-8, và cho Trung Hoa biết rằng Pháp sẵn sàng giải quyết vấn đề an ninh biên giới và quyền lợi người Hoa buôn bán trên sông Hồng.

Ngoại trưởng Pháp còn gởi công văn ngày 15-9-1883 cho chính phủ Trung Hoa, một lần nữa xác nhận rằng Pháp không chấp nhận tạm ước Thiên Tân ngày 20-12-1882, giữa đại sứ Bourée và Lý Hồng Chương về Bắc Kỳ. Công văn ngày 15-9 còn đưa ra đề nghị mới của Pháp gồm hai điểm: (1) Lập một khu phi quân sự giữa hai vĩ tuyến 21 và 22, nếu một bên muốn động binh để đánh dẹp thổ phỉ thì phải có sự đồng ý của bên kia. (2) Thị trấn Man Hao trên sông Hồng trong lãnh thổ Trung Hoa sẽ được mở ra cho việc giao thương. Chính sách của chính phủ Jules Ferry được Quốc hội Pháp hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc đầu phiếu tại Quốc hội ngày 31-10-1883. (Vũ Ngự Chiêu, sđd. tt. 330-332.)

Hai chính phủ Pháp Hoa tranh cãi không dứt về vấn đề Bắc Kỳ. Pháp muốn độc quyền tại miền Bắc Việt Nam, trong khiTrung Hoa muốn chia một phần Bắc Kỳ cho Trung Hoa, và bảo đảm an toàn biên giới Việt Hoa. Trung Hoa tin tưởng rằng Pháp khó có thể chiến thắng lực lượng Trung Hoa ở Bắc Kỳ. Ngoài ra, Trung Hoa còn hy vọng hai nước Anh và Đức sẽ can thiệp, nhưng lúc đó, Anh đang bận rộn ở Ai Cập và Đức muốn Pháp bành trướng ở Bắc Kỳ hơn là tập trung lực lượng để chống Đức ở biên giới giữa hai bên.

Cuối cùng, tại Bắc Kỳ, Pháp đã đánh đuổi quân Trung Hoa và quân Cờ đen chạy lên miền biên giới, làm chủ tình hình Bắc Kỳ. Lúc đó, Trung Hoa thấy không thể kiếm lợi được ở Việt Nam mà còn lo ngại Pháp sẽ tiến chiếm Đài Loan hay Hải Nam để đòi chiến phí, nên Trung Hoa bắt đầu thay đổi chính sách.

4.- HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ NHẤT (11-5-1884)

Đầu tiên, Lý Hồng Chương, nhờ một thân hữu tên là Gustav Detring, người Đức, công chức cao cấp trong ngành thương chánh Trung Hoa và đã phục vụ 20 năm ở Quảng Châu, vận động với chính phủ Pháp. Vào tháng 4-1884, Gustav Detring đem việc nầy thảo luận với một người bạn là trung tá Ernest François Fournier, hạm trưởng tuần dương hạmVolta, đang đóng ở Quảng Đông. Fournier trình bày lại ý định của Lý Hồng Chương với cấp chỉ huy là phó đô đốc Sébastien Lespès, tư lệnh hạm đội Pháp tại Trung Hoa và Nhật Bản. Một mặt, Lespès thuận cho Fournier nói chuyện với Lý Hồng Chương, một mặt Lespès trình về Paris.

Ernest Fournier nhờ Gustav Detring chuyển cho Lý Hồng Chương một văn thư cho biết các điều kiện về phía Pháp để đi đến một cuộc dàn xếp với Trung Hoa: giải nhiệm đại sứ Tăng Kỷ Trạch, từ bỏ ưu quyền đối với Việt Nam, rút lui quân đội Trung Hoa khỏi Bắc Kỳ, và bồi hoàn chiến phí.(5)

Để tỏ thiện chí, triều đình Trung Hoa quyết định chấm dứt nhiệm vụ đại sứ ở Pháp của Tăng Kỷ Trạch, mà vẫn giữ ông ta làm đại sứ ở Anh; và Trung Hoa cử Hứa Cảnh Trừng làm đại sứ tại Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan và Áo.

Cuộc nói chuyện tiếp tục, Fournier đến Thiên Tân, gặp Lý Hồng Chương và nhanh chóng ký hiệp ước ngày 11-5-1884, gồm năm khoản, thường được gọi là hiệp ước Fournier hay hiệp ước Thiên Tân, đại để như sau: 1) Pháp hứa tôn trọng biên giới Việt Hoa. 2) Trung Hoa cam kết rút quân khỏi Bắc Kỳ và tôn trọng những hòa ước ký kết giữa Pháp và Việt Nam. 3) Pháp không đòi bồi thường chiến phí. 4) Hủy bỏ những hiệp ước trước đây giữa Trung Hoa và Việt Nam, và nuớc Pháp cam kết không làm tổn hại thể diện Trung Hoa. 5) Hai bên thỏa thuận sẽ gặp nhau lại trong vòng 90 ngày để ký kết hiệp ước chính thức.

Ernest Fournier tiếp tục thương lượng với Lý Hồng Chương về thời biểu Trung Hoa rút quân. Ngày 17-5, Fournier trao cho Lý Hồng Chương một giác thư (mémorandum) theo đó Pháp sẽ tiếp thu Lạng Sơn, Cao Bằng ngày 5-6-1884, và Lào Cai ngày 1-7-1884.(Alfred Schreiner, sđd. tr. 362.)

Nhận được tin nầy, trung tướng Millot, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ nghĩ rằng Pháp có thể chiếm đóng vùng Lạng Sơn, Cao Bằng khoảng từ 15 đến 20-6, nên ông cử quân đi tiếp thu Lạng Sơn. Trên đường đi Lạng Sơn, ngang qua thị trấn Bắc Lệ ngày 22-6, đoàn quân Pháp bị quân Trung Hoa tấn công dữ dội và gây thiệt hại nặng nề.

Chính phủ Paris được tin Bắc Lệ, liền ra lệnh cho đại diện Pháp ở Bắc Kinh gởi cho triều đình Mãn Thanh một tối hậu thư ngày 12-7, yêu cầu Trung Hoa phải ra lệnh quân đội mình lập tức rời Bắc Kỳ, hạn chót là 31-7, và triều đình Trung Hoa phải bồi thường 250 triệu quan chiến phí, nếu không Pháp sẽ đánh Trung Hoa.

Phó đề đốc Prosper Courbet, đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Bắc Kỳ, được cử kiêm luôn chỉ huy hạm đội Pháp ở Trung Hoa, đem quân đến cửa sông Mân ở Phúc Châu (Fou-Tchéou), thủ phủ tỉnh Phúc Kiến (Fukien) ngày 16-7, trong khi một hạm đội Pháp khác đến đảo Cơ Long (Kélung) ở eo biển Đài Loan. Ngày 5-8-1884, Pháp bắt đầu tấn công, gây thiệt hại nặng cho Trung Hoa.

Trên biển, hạm đội Pháp truy lùng và tấn công các tàu của Trung Hoa, phong tỏa cửa sông Dương Tử (Yang-tse), vùng Thượng Hải, và cho đến cuối tháng 3-1885, Pháp làm chủ hoàn toàn quần đảo Bành Hồ ở eo biển Đài Loan. (Quân sử III, Sài Gòn: 1971, tt. 227-228.)

5. HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN LẦN THỨ HAI (9-6-1885)

Trong khi Pháp khó thắng Trung Hoa, thì rõ ràng Trung Hoa thất thế cả ở Trung Hoa lẫn ở Bắc Kỳ. Cả hai bên Pháp Hoa đều muốn tìm kiếm một giải pháp hòa bình vì hoàn cảnh riêng của mỗi bên. Sau những cuộc thảo luận kéo dài, hai bên dự tính đi đến việc ký kết hòa ước vào cuối tháng 3-1885, thì chính phủ Jules Ferry sụp đổ. Chính phủ Brisson lên thay thế. Bộ trưởng ngoại giao vẫn là Charles Freycinet.

Cuộc đàm phán về một hòa ước mới bắt đầu tại thành phố Thiên Tân từ ngày 13-5-1885 giữa hai bên Pháp-Hoa; kết thúc bằng Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và thương mại ký ngày 9-6-1885 giữa Jules Patenôtre (đại diện Pháp) và Si Tchen, Lý Hồng Chương (Li Hongzhang / Li-Hung-Tchang) và Teng Tcheng Sieou (đại diện Trung Hoa).

Hòa ước Thiên Tân lần thứ hai nầy gồm 10 điều khoản, có thể được tóm lược như sau: Trung Hoa đồng ý rút quân về nước (điều 1). Trung Hoa nhìn nhận việc Pháp bảo hộ Việt Nam (điều 2). Hai bên sẽ tiếp tục hòa đàm về vấn đề biên giới Việt Hoa (điều 3). Hai bên sẽ thảo luận về một hiệp ước thương mại (điều 5, 6, 8). Pháp đồng ý rút quân khỏi Đài Loan và Bành Hồ (Pescadores) (điều 9).

Như thế là chiến tranh Pháp Hoa về vấn đề Bắc Kỳ kết thúc. Bắc Kinh gởi một phái đoàn đến Hà Nội để giúp chấm dứt tranh chấp Pháp Hoa, và đưa quân đội nhà Thanh trở về Trung Hoa.

KẾT LUẬN

Dầu Việt Nam, quốc hiệu của nước ta từ khi vua Gia Long lên ngôi năm 1802, là một nước độc lập, Trung Hoa vẫn mặc nhiên tự xem Trung Hoa là thượng quốc và có ưu quyền đối với Việt Nam. Khi người Pháp xuất hiện, Trung Hoa tự xem có quyền thương lượng với Pháp về Việt Nam, muốn chia phần với Pháp và quyết định số phận Việt Nam. Cho đến khi bị Pháp đánh bại, Trung Hoa đành nhượng bộ, nhưng những nhà cầm quyền Trung Hoa không bao giờ từ bỏ mục tiêu truyền kiếp là đánh chiếm và đô hộ Việt Nam.

Thì Bắc Kỳ trở thành khu tự trị của Tộc Kinh thuộc Quảng Tây Trung Quốc

Pháp sẽ cai trị vùng Trung Kỳ và Nam Kỳ. Số phận VN đi hướng khác
 
Thời truớc Pháp thuộc, bọn Khựa kiều sống ở Tonkin đông vãi đái, nhung nhúc như dòi.

Chúng lập phố lập làng, đến tận những năm 197x, trước khi anh em Việt Hoa trở mặt. Chúng Khựa làm đủ thứ nghề, từ bán hàng ăn cho tới gánh cứt, vất vả trăm bề.

So với bọn Tàu chợ lớn thì Tàu bake khổ hơn nhiều, bần tiện hơn và nằm ở giai cấp thấp hơn.

Bọn Tàu thì xưa nay cứ dân tao ở đâu thì bố mày nhận đất đến đó, nên tụi nó đòi ngoạm một phần bake cũng dễ hiểu.

Đám cờ đen Lưu Vĩnh Phúc, được nguỵ sử ca ngợi là chống pháp, chính là một băng cướp của Tàu, sinh nhai ở bake đó. Xa hơn thì bọn hải tặc đánh thuê cho anh anh Nguyễn Huệ cũng Tàu Khựa nốt.

Nhưng bọn Pháp giành lại cho xứ lừa một đống đất đai.

Thế cặc nào anh em bake đuổi Pháp đi, rồi sau này lại cắt đất cắt đảo cho Khựa. Đúng là trò đời đen bạc. Hehe.
 
Thêm tác phẩm Hận đồ bàn của Chế Linh

Hận Đồ bàn là sáng tác của Xuân Tiên, anh họ tao.

Anh ấy dân Hanoi, chơi được 25 nhạc cụ, thời trẻ ảnh còn đi biểu diễn xiếc.

Hận đồ bàn anh nói về tâm sự của người Chiêm khi kinh đô Đồ Bàn bị phá, sáng tác xong đem trình diễn làm kinh động đến cả giới chánh trị gia. Kết cục là bài hát bị cấm vì có nguy cơ làm sụp nền cộng hoà hehe.
 
Thời truớc Pháp thuộc, bọn Khựa kiều sống ở Tonkin đông vãi đái, nhung nhúc như dòi.

Chúng lập phố lập làng, đến tận những năm 197x, trước khi anh em Việt Hoa trở mặt. Chúng Khựa làm đủ thứ nghề, từ bán hàng ăn cho tới gánh cứt, vất vả trăm bề.

So với bọn Tàu chợ lớn thì Tàu bake khổ hơn nhiều, bần tiện hơn và nằm ở giai cấp thấp hơn.

Bọn Tàu thì xưa nay cứ dân tao ở đâu thì bố mày nhận đất đến đó, nên tụi nó đòi ngoạm một phần bake cũng dễ hiểu.

Đám cờ đen Lưu Vĩnh Phúc, được nguỵ sử ca ngợi là chống pháp, chính là một băng cướp của Tàu, sinh nhai ở bake đó. Xa hơn thì bọn hải tặc đánh thuê cho anh anh Nguyễn Huệ cũng Tàu Khựa nốt.

Nhưng bọn Pháp giành lại cho xứ lừa một đống đất đai.

Thế cặc nào anh em bake đuổi Pháp đi, rồi sau này lại cắt đất cắt đảo cho Khựa. Đúng là trò đời đen bạc. Hehe.

Vì đéo có sự ủng hộ của Khựa thì vương triều của anh thái tổ đéo tự đứng được trên chân mình. Mà ngoài Khựa ra thì đéo ai ủng hộ anh nhiều như vậy.
 
TOÀN M ẤY THẰNG KHÁT NƯỚC ,, BÔI BẨN LỊCH SỬ
TAO HỎI THẬT BAO GIỜ CHÚNG M ÀI CHỐNG + THÀNH CÔNG ... 50 NĂ M RỒI ĐẤY
TAO HỎI THẬT BAO GIỜ CHÚNG M ÀI CHỐNG + THÀNH CÔNG ... 50 NĂ M RỒI ĐẤY
TAO HỎI THẬT BAO GIỜ CHÚNG M ÀI CHỐNG + THÀNH CÔNG ... 50 NĂ M RỒI ĐẤY
TAO HỎI THẬT BAO GIỜ CHÚNG M ÀI CHỐNG + THÀNH CÔNG ... 50 NĂ M RỒI ĐẤY
 
Sao mấy bữa nay có chuyện gì mà topic chính sử trồi lên hoài vậy tụi mày.

Chẳng lẽ nhân dân đã chán thử nguỵ sử của Việt cộng rồi sao?

Chắc phải có âm mưu diễn biến hoà bình gì đó, chứ không thể ngẫu nhiên được. Hehe.
Mấy ổng muốn thế đấy. Mày nhìn gần mấy ổng là đảng nhưng nhìn xa đến trăm năm mới hiểu mấy ổng mới chính là dân tộc che đi mưu đồ trăm năm của mấy ổng. Xét lại lịch sử chỉ là một biểu hiện của bản chất VN đã có và đang phát triển đa nguyên chính trị và càng ngày đa nguyên chính trị càng lớn mạnh thôi. Mấy ổng thao túng tâm lý bằng nỗi sợ hãi không cho tự do báo chí tự do ngôn luận tự do biểu tình cấm đa đảng và các diễn đàn công khai do mấy ổng kiểm soát hay kiểm duyệt internet bằng nhiều luật an ninh mạng khiến dân chúng tâm lý sợ hãi và từ đó nghĩ rằng VN không có đa nguyên nhưng dân chúng đâu biết rằng hàng ngày họ lại vào được các trang web phản động hay sử dụng các công cụ internet công nghệ của Mỹ khiến việc cấm đó cũng như không và đó là kết quả mong muốn mà mấy ổng nhìn thấy là cấm cũng như không để nuôi dưỡng đa nguyên chính trị
 
Sao mấy bữa nay có chuyện gì mà topic chính sử trồi lên hoài vậy tụi mày.

Chẳng lẽ nhân dân đã chán thử nguỵ sử của Việt cộng rồi sao?

Chắc phải có âm mưu diễn biến hoà bình gì đó, chứ không thể ngẫu nhiên được. Hehe.
Tụi bên trên nó kích lên làm hỏa mù cho vụ bầu bí thôi. Clip sex giờ đéo có cái nào chất lượng nên chuyển sang trò này.
 
Mấy ổng muốn thế đấy. Mày nhìn gần mấy ổng là đảng nhưng nhìn xa đến trăm năm mới hiểu mấy ổng mới chính là dân tộc che đi mưu đồ trăm năm của mấy ổng. Xét lại lịch sử chỉ là một biểu hiện của bản chất VN đã có và đang phát triển đa nguyên chính trị và càng ngày đa nguyên chính trị càng lớn mạnh thôi. Mấy ổng thao túng tâm lý bằng nỗi sợ hãi không cho tự do báo chí tự do ngôn luận tự do biểu tình cấm đa đảng và các diễn đàn công khai do mấy ổng kiểm soát hay kiểm duyệt internet bằng nhiều luật an ninh mạng khiến dân chúng tâm lý sợ hãi và từ đó nghĩ rằng VN không có đa nguyên nhưng dân chúng đâu biết rằng hàng ngày họ lại vào được các trang web phản động hay sử dụng các công cụ internet công nghệ của Mỹ khiến việc cấm đó cũng như không và đó là kết quả mong muốn mà mấy ổng nhìn thấy là cấm cũng như không để nuôi dưỡng đa nguyên chính trị

Thằng này viết đéo gì không dấu chấm phẩy đọc mệt vãi cứt.

Tóm lại quê chúng mày đang bị cai trị bởi độc tài nội địa aka bọn đồng bào, nhân danh dân tộc.

Điều này còn tàn tệ hơn cả phụ thuộc vào ngoại bang, địt mẹ đúng là thảm hoạ ngàn năm tăm tối.
 
Thằng này viết đéo gì không dấu chấm phẩy đọc mệt vãi cứt.

Tóm lại quê chúng mày đang bị cai trị bởi độc tài nội địa aka bọn đồng bào, nhân danh dân tộc.

Điều này còn tàn tệ hơn cả phụ thuộc vào ngoại bang, địt mẹ đúng là thảm hoạ ngàn năm tăm tối.
Tao mừng mày ko tin tao viết gì. Hãy để nó tự nhiên phát triển như nó đang diễn ra
 
VN theo TQ chỉ là bề ngoài thôi thực chất TQ muốn nhiều hơn thế là một chư hầu vệ tinh của TQ cơ và dâng hết hoàng sa trường sa và gần như toàn bộ vùng biển VN cho TQ.
Nếu m quan sát sẽ thấy Betonamu sau 1975 là 1 cỗ máy copy lại TQ
Thời bao cấp --> sao của Đại nhảy vọt
Hiện tại --> Sao bđs, ô tô điện TQ năm 2018~2020
 
Nếu m quan sát sẽ thấy Betonamu sau 1975 là 1 cỗ máy copy lại TQ
Thời bao cấp --> sao của Đại nhảy vọt
Hiện tại --> Sao bđs, ô tô điện TQ năm 2018~2020
Thực ra điều đó chỉ chứng tỏ TQ vẫn còn là nước đang phát triển và thiếu trầm trọng nền tảng công nghệ để vươn lên thôi giống VN vậy chỉ là đỡ hơn thôi. Ví dụ công nghệ xe điện TQ đang hí hửng theo đuổi tưởng là độc lập nhưng thực chất lại càng lệ thuộc vào Mỹ nhiều hơn về bán dẫn và nếu xảy ra chiến tranh xe điện sẽ bộc lộ điểm yếu chết người ngay là ko thể sạc được khi nguồn cung nhiên liệu không có tính di động dễ chuyên chở và tốc độ nạp như xăng dầu.
 
Vậy thì viết thư cầu xin mẫu cuốc quay lại cai trị đi :vozvn (22):
thì hiện giờ đang được mẫu quốc Trung Hoa cai trị đây, thể hiện rõ nhất là sắp xếp tứ trụ phải làm hài lòng Trung Cộng, thậm chí toàn phải sang để lấy lòng mẫu quốc
 
Thật ra theo đúng lịch sử thì VN bắt nguồn từ 1 phần đất của TQ xưa tách ra,
Chính xác là tách ra từ nước Xích Quỷ
Còn chọn TQ thì từ sau thời 3 Dẩm chớt, vẫn theo TQ đó thôi
Đã có thằng nào chọn Mý bjo đâu
Lý do là vì sợ theo Mý sẽ mất chớ đợ
Tộc Bách Việt vốn xuất phát từ bờ Nam sông Dương Tử. 100 bộ tộc Sống quần cư và trồng lúa nước ở đó. Sau người Hán từ Tây Tạng từ miền Bắc đánh xuống phương Nam thì đồng hoá hết các bộ tộc khác. Duy chỉ có tộc Giao Chỉ là chạy xuống phía Nam và định cư ở vùng châu thổ sông Hồng
 
Tộc Bách Việt vốn xuất phát từ bờ Nam sông Dương Tử. 100 bộ tộc Sống quần cư và trồng lúa nước ở đó. Sau người Hán từ Tây Tạng từ miền Bắc đánh xuống phương Nam thì đồng hoá hết các bộ tộc khác. Duy chỉ có tộc Giao Chỉ là chạy xuống phía Nam và định cư ở vùng châu thổ sông Hồng
Tao thấy đó là huyền sử thôi chả có bằng chứng khảo cổ học hay các di tích lịch sử chứng minh cái huyền sử này
 
Tộc Bách Việt vốn xuất phát từ bờ Nam sông Dương Tử. 100 bộ tộc Sống quần cư và trồng lúa nước ở đó. Sau người Hán từ Tây Tạng từ miền Bắc đánh xuống phương Nam thì đồng hoá hết các bộ tộc khác. Duy chỉ có tộc Giao Chỉ là chạy xuống phía Nam và định cư ở vùng châu thổ sông Hồng
Đ r
Tộc Giao chỉ có nét tính cách giống bọn Trung Đông --> dễ xâm lược nhưng khó cai trị do dân có tính khôn lỏi, đéo ngoan
 
thì hiện giờ đang được mẫu quốc Trung Hoa cai trị đây, thể hiện rõ nhất là sắp xếp tứ trụ phải làm hài lòng Trung Cộng, thậm chí toàn phải sang để lấy lòng mẫu quốc
Đến chịu dân trí ae 3Q bất mãn. Tau đáng nói mẫu quốc Pháp chứ TQ thì liên quan đéo gì. :vozvn (22):
 
Tao thấy đó là huyền sử thôi chả có bằng chứng khảo cổ học hay các di tích lịch sử chứng minh cái huyền sử này
Huyền sử thì phải là câu chuyện Lạc Long Quân. Còn chuyện Bách Việt thì là khảo cổ rồi. Mà xét về góc độ thuyết Ancient Alien thì có khi Lạc Long Quân lại còn có thật ý chứ =))=))=))
 
Cs mà đéo đuổi Pháp thì có khi 3Q còn chẳng tồn tại ý chứ:vozvn (22):
Mày học sử lại đi chính Mỹ tháng 02/1950 công nhận độc lập cho Quốc gia VN tiền thân VNCH và lá cờ mày kêu 3 que đấy đã có từ thời nhà Nguyễn vua Thành Thái ban cho rồi. Quốc gia VN vào tháng 02/1950 thống nhất toàn bộ 2 miền Bắc Nam và 2 quầng đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn còn nguyên vẹn chả ai xâm chiếm
 
Mày sai nhé. Nhà Thanh chiếm Miến Điện mày quên rồi sao. Nhà Thanh nếu thực sự sang giúp VN chống Pháp theo cầu viện Tự Đức thì tại sao lại tiếp tay cho Lưu Vĩnh Phúc đang làm loạn ở VN mà Tự Đức yêu cầu nhà Thanh dẹp loạn Lưu Vĩnh Phúc chứ có phải ủng hộ đâu rồi còn chiếm luôn vùng thượng du Bắc Bộ áp sát đồng bằng sông Hồng. Trong bài viết có nêu rõ hệ thống thiên triều-chư hầu sụp đổ sau trận chiến Pháp-Thanh khiến Nhật tận dụng chiếm luôn Triều Tiên
Nếu theo như mày nói quân Thanh lúc đó không xâm lược VN thì tại sao nhà Thanh lại ký hiệp định Pháp-Thanh thống nhất đường biên giới 2 nước Việt-Trung hay nói cách khác là Pháp bàn về lãnh thổ VN với nhà Thanh và bắt nhà Thanh cam kết công nhận chính thức lãnh thổ VN với đường biên giới cụ thể rõ ràng và không được xâm phạm.
1. Nhà Thanh đánh Miến Điện vì tranh chấp lãnh thổ khu vực biên giới khi chính người Miến chủ động tấn công gây rối ở biên giới, giết người TQ.
2. Lưu Vĩnh Phúc có liên hệ với đám tàn quân Thái Bình Thiên Quốc là đám nổi loạn nổi tiếng chống nhà Thanh thời đó, nhà Thanh muốn tận diệt để trừ hậu họa. Đám này trốn chạy sang miền Bắc VN.
3. Nói đúng ra TQ là nước đang bảo hộ VN, VN phải thường xuyên nộp cống phẩm cho các triều đại TQ.
Tụi mày phải hiểu lịch sử xuyên suốt như thế này: chế độ phong kiến nó bắt nguồn từ chế độ bộ lạc.
Chế độ bộ lạc giữa các bộ lạc với nhau là khi bộ lạc này đến bộ lạc khác sẽ đánh nhau, bên nào thua thì phải nộp cống phẩm cho bên thắng.
Sau đó chuyển tiếp lên chế độ quân chủ.
1 ông vua nước này đem quân đánh 1 ông vua nước kia. Thằng nào thua thì phải nộp cống phẩm cho thằng thắng. Bù lại sẽ được nó công nhận là vương 1 vùng đó.
===> Nó giống cái từ: NHẬN TIỀN BẢO KÊ

Ở trường hợp này quân Pháp đến VN và muốn thay đổi: Pháp bảo hộ VN.
Điều này dẫn đến việc vua Nguyễn phải hỏi ý kiến nhà Thanh và đặt ra yêu cầu sẽ không nộp cống phẩm cho nhà Thanh mà chuyển qua cho Pháp.
===> Nhà Thanh buộc phải đem quân đối đầu với quân Pháp ở VN vì nếu không họ sẽ mất đi nguồn thu tiền cống phẩm hàng năm.
Nhà Thanh thua trận, Hiệp ước Pháp Thanh sau đó như là bản hiệp ước đoạn tuyệt với nhà Thanh. VN không còn nộp cống phẩm cho nhà Thanh hàng năm và không còn tước hiệu AN NAM QUỐC VƯƠNG nữa. VN giờ được gọi là xứ thuộc bảo hộ của Pháp.

Thực tế là Pháp nó không đòi lấy cống phẩm trực tiếp từ nhà Nguyễn nộp cho cho chính phủ Pháp mà là lấy tiền từ các cơ sở hạ tầng, dịch vụ công mà Pháp đã xây dựng cho VN. Do nhà Nguyễn không giỏi việc kế toán, kiểm toán nên bọn Pháp lấy trực tiếp % từ thuế dân của nhà Nguyễn, do vậy mà thuế trong dân chúng tăng lên. Nhưng nghĩ lại vẫn còn tốt hơn nộp cống phẩm cho nhà Thanh mà chúng không xây dựng, hỗ trợ đào tạo kỹ thuật gì cho VN.

===> Lịch sử VN không độc lập hoàn toàn như sách vở hay nói. Từ lâu VN đã là thuộc địa, xứ bảo hộ của các triều đại TQ, chỉ là chuyển sang đổi qua bảo hộ của Pháp thôi.
 

Có thể bạn quan tâm

Top