Đm Ánh, ân nhân còn xuống tay thì vu oan cho nhà Tây sơn đã là gì!
Nguyễn Văn Thành có xuất xứ từ Thuận Hóa, sử nhà Nguyễn mô tả: “trạng mạo đẹp đẽ, tính trầm nghị, thích đọc sách, có tài võ nghệ” là một trong những vị khai quốc công thần nhà Nguyễn, có quân công hạng nhất, từng được giao giữ chức Khâm sai Chưởng Tiền quân, Bình Tây đại tướng quân, tước Quận công.
Nguyễn Văn Thành đã theo chân Nguyễn Ánh trung thành phò tá từ những ngày khởi đầu khó khăn nhất cho đến ngày chiến thắng sau cùng, cùng với Lê Văn Duyệt là những người có những đóng góp rất quan trọng và mang tính quyết định đến thành công sau này của quân Gia Định.
Khi hợp binh của quân Xiêm và Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ dần cho một trận tơi tả ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút, quân Xiêm thua chạy tán loạn, tàn quân của Nguyễn Ánh chỉ còn ngót ngét trăm người, thì khi ấy chính Nguyễn Văn Thành là người đã cõng chúa đi chạy nạn, trải qua hoàn cảnh đói khát khổ sở tột cùng, phải liều mạng đi cướp đồ ăn của dân về nuôi chủ, suýt nữa bị dân đánh chết.
Khi còn cảnh ăn nhờ ở đậu ở đất Xiêm, vâng lời vua Xiêm đi đánh với Miến Điện, Nguyễn Văn Thành cùng Lê Văn Quân có công điều binh đánh lùi quân Miến được vua Xiêm đem vàng lụa đến tạ ơn và ngỏ ý mang quân qua “giúp” lấy lại Gia Định lần nữa(sử Nguyễn bảo thế), Nguyễn Văn Thành đã tâu rằng: “Vua Thiếu Khang chỉ có một lữ mà dựng được cơ đồ nhà Hạ. Ta nay nuôi dưỡng sức mạnh chờ sự sơ hở thì việc có thể làm được, lính Xiêm tàn ngược, không nên nhờ chúng giúp, nếu nhờ binh lực của chúng mà thành công thì ắt sẽ có cái lo về sau, chẳng bằng nằm yên chờ đợi cơ hội là hơn". Nguyễn Ánh cho là phải nên việc mời Xiêm lần hai gác lại.
Năm Đinh Mùi 1787, quân Gia Định thất lợi, nhiều người khuyên Thành về ở ẩn quê nhà, chờ đợi thời cơ, Thành khẳng khái nói rằng: “Nghĩa vua tôi sống chết vẫn theo, thành bại do trời, ta sao đoán trước được, nếu nhân bị quở trách mà đi, nhân thua mà trốn chạy là kẻ phản phúc, tiền nhân ta không làm thế” – Đại Nam thực lục, tr339
Về vai trò của Nguyễn Văn Thành, trong Đại Nam chính biên liệt truyện có lời nói: “Thành hiểu nghĩa sách, biết đại thế, trong các tướng, vua (tức Nguyễn Ánh) coi trọng Thành hơn cả, việc lớn việc nhỏ đều hỏi han để quyết đoán. Khi đến chầu, vua cho ngồi để thong thả hỏi han, ông cũng đem hết sức hiểu biết tiềm tàng, tình hình ngoài biên, sự đau khổ của dân, kế hoạch triều đình, mưu kế việc binh, biết điều gì là nói hết, nhiều điều ích lợi”.
"...Thành có văn võ tài lược, lâm trận dụng binh mưu lược rồi mới đánh cho nên ít khi thua, lúc đầu trung hưng, công ấy tốt lắm. Đến khi Bắc hà đã định, một mình đương công việc Tổng trấn không động đến lời nói nét mặt mà trộm giặc đều yên, bày mưu chốn miếu đường, bày tâu sự nghị đều được thi hành, có thể gọi là người có mưu giỏi trị nước..."
Công cao là thế, trung thành là thế, nhưng đến cuối đời, đáng tiếc Nguyễn Văn Thành lại có kết cục không mấy tốt đẹp.
Vì nhiều lý do, Nguyễn Văn Thành ngày càng rước nhiều nghi kỵ của Gia Long, đến năm 1815, con của Thành là Nguyễn Văn Thuyên làm một bài thơ mà theo bản ý của một số triều thần là “có mưu đồ phản nghịch” trong đó có cả một công thần rất máu mặt là Lê Văn Duyệt đem tấu trình lên Gia Long.
Nguyễn Văn Thành từng tuyệt vọng đến nắm áo vua van van xin phân rõ sự việc nhưng Gia Long phất tay áo bỏ đi. Sau vài đợt bức cung thì con của Nguyễn Văn Thành cũng điểm chỉ nhận tội, lại móc nối với vụ tạo phản của Lê Duy Hoán, Nguyễn Văn Thành rơi vào đường cùng đành uất ức nói rằng: “Án đã xong rồi, vua bắt thần tử, thần bất tử bất trung”, di biểu để lại chép: “ … sớm tối rèn dệt cái tội độc ác cho cha con thần, thần không biết kêu oan vào đâu, chỉ đành chết mà thôi”, sau đó uống thuốc độc tự vẫn trong ngục, thằng con Nguyễn Văn Thuyên bị lôi ra xử chém.
Sau khi xử lý xong hai cha con, Gia Long lúc này mới có thời gian xem qua bài biểu trần tình của Nguyễn Văn Thành, xem xong khóc lóc ngay giữa triều, ra lệnh tha cho các con còn lại của Nguyễn Văn Thành (Còn ai hay không thì mình không rõ lắm), rồi cho tiền lụa hậu hĩnh để an táng.
=================///==============
Đôi dòng bình loạn: Thực ra nếu để ý vụ án của Nguyễn Văn Thành các bạn sẽ thấy rằng Nguyễn Ánh biết thừa Nguyễn Văn Thành vô tội, đến cả những vua sau này ân xá phục vị để thu phục lòng người cũng chẳng ai nói Nguyễn Văn Thành có tội nợ gì mà chỉ là nói con có tội liên lụy đến cha mà thôi. Ngay chứng cớ kết tội Thành cũng là nhờ tra tấn ép cung thằng con mà ra.
Cái tội lớn nhất của Nguyễn Văn Thành ngay từ ban đầu chính là đã đảm nhận vị trí Tổng trấn Bắc Thành. Để hiểu rõ điều đó thì cần phải nói một chút về vị thế của Bắc Hà.
Với vị trí địa lý dài hẹp, đường xá xa xôi khó di chuyển đi lại, khả năng giao thông liên lạc yếu kém của nước ta thời điểm đó, nhà Nguyễn một khi đã đặt thủ đô tại Phú Xuân tức là đã chấp nhận để hướng cai quản của mình thiên hướng về phía Nam hơn là phía Bắc.
Lý do vì sao thì kỳ thực rất dễ hiểu, nhà Nguyễn có gốc rễ ở phía Nam, lòng người ở miền Bắc thì chưa bao giờ chịu hướng về nhà Nguyễn mà theo cách diễn giải của các vua Nguyễn thì đây là “giống dân phản trắc”, nhưng bỏ mặc khu vực này thì lại không được, nên Nguyễn Ánh cần một người để có thể quản được thế cục phức tạp nơi đây và Nguyễn Văn Thành là ứng cử viên số một cho việc đó.
Có lẽ, cái ngày mà ông ta nhậm chức cũng chính là cái ngày ông ta tự tay ký vào bản án tử cho bản thân mình. Hãy thử ngẫm xem, một vị công thần khai quốc tài năng, khả năng quản trị tốt, có tài cầm quân, quan hệ rộng rãi nắm trong tay một vùng đất giàu có, màu mỡ đông dân hơn cả trung ương, lại nằm ngoài tầm quản lý của triều đình thì nó là cái gì. Điều đó chẳng khác nào một quả bom nổ chậm ở ngay sau lưng cả, sẽ không có bất kỳ vị vua có đầu óc nào cho phép điều này tồn tại.
Cho nên, ngay sau khi Nguyễn Văn Thành đã quản lý tạm ổn Bắc Hà (1802-1810), dẹp bớt những mầm mống hỗn loạn, thời cơ chín muồi Nguyễn Ánh lập tức đưa Nguyễn Văn Thành ra khai đao, và cũng nhân vụ án này giết gà dọa khỉ, diệt luôn hậu duệ nhà Lê mà đại diện là cả nhà Lê Văn Hoán, bài thơ của thằng con Nguyễn Văn Thành cũng chỉ là cái cớ sứt mẻ cho mưu tính từ đầu của Gia Long mà thôi.
Thực ra mà nói thì Lê Văn Duyệt có lẽ cũng từng nằm trong tầm ngắm của Gia Long, nhưng trong mắt Gia Long, Lê Văn Duyệt chỉ là một hoạn quan, không có hậu duệ trực hệ, tham vọng quyền lực sẽ không lớn, miền Nam khi ấy thế cục còn rất phức tạp, không có Lê Văn Duyệt sẽ rất dễ loạn, bằng chứng là ngay sau khi Lê Văn Duyệt chết, Minh Mạng diệt Lê Văn Khôi đưa người xuống quản thì loạn mấy năm liền tiếp không dứt. Miền Bắc sau khi Thành chết cũng vậy, nhưng trong mắt các vua Nguyễn lúc ấy, có lẽ một vùng thuộc địa đói kém, nổi loạn nhưng không có sức uy hiếp còn đỡ hơn là một vùng lãnh thổ giàu có thịnh vượng mà lại như một mũi dao lăm lăm chĩa vào sau lưng.
Người đau thương nhất ở đây, không ai khác chính là Nguyễn Văn Thành, cả cuộc đời trung thành cảnh cảnh, phò vua thoát qua từng cảnh nguy nan, vì miếng ăn của chủ mà suýt nữa bỏ mạng, gặp cảnh khó vẫn kiên trì ở lại đến cùng, đến khi công thành danh toại, ôm lòng cống hiến cho triều đình, thống nhất địa lý, soạn thảo hình luật, ra trận dẹp binh loạn những tưởng có thể an hưởng phú quý, lưu danh sử sách đổi lại chỉ là chén rượu độc uất ức tức tưởi trong tù.
Có lẽ đến tận giây phút nuốt xuống chén rượu đó ông ta cũng không thể hiểu được rốt cuộc mình đã sai ở chỗ nào? Liệu ta đã sai khi liều mình trung thành với chủ? Liệu ta đã sai khi không chịu bỏ đi? Tại sao ngay cả khi quỳ xuống nắm áo vua cầu xin chút lòng thương xót tình nghĩa quân thần xưa kia cũng chẳng được đoái hoài?
Tính ra có một chủ công như Triệu Khuông Dẫn cũng thật đáng quý, bởi vì cả cái chén rượu tước binh quyền kia, Nguyễn văn Thành cũng không có cơ hội được uống.
Điều an ủi duy nhất đối với Nguyễn Văn Thành có lẽ là, vị đồng liêu hãm hại mình Lê Văn Duyệt, kết cục cuối đời cũng là xích mồ đục mả “phục pháp xử”, dù rằng có hơi muộn.
Còn cái trò ngồi đọc tâm thư rồi khóc lóc giữa triều kia, quả thực chính là một trò hề kệch cỡm không hơn không kém.