Tình nghĩa của Liên Xô và lời hứa của stalin đây
Ngày 2-10-1950, Mao Trạch Đông thông báo cho I.V. Stalin sẽ đưa quân giúp đỡ CHDCND Triều Tiên, dự định quân đội Trung Quốc sẽ có mặt ở Triều Tiên vào trung tuần tháng 11-1950; đồng thời, đề nghị: "Lúc đầu, khoảng 5-7 sư đoàn quân tình nguyện sẽ được đưa tới Triều Tiên, song những sư đoàn này chỉ có thể tham gia chiến đấu sau khi nhận được trang bị vũ khí từ Liên Xô"
[31]. Mao Trạch Đông yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc từ trên không. Thực không hổ là nhà chính trị lão luyện – quyết định chiến đấu vì mục tiêu "cách mạng thế giới đại đồng", Mao Trạch Đông cân nhắc để tham gia cuộc chiến tranh với những điều kiện có lợi nhất, đặc biệt là tranh thủ viện trợ vũ khí hiện đại từ Liên Xô, xây dựng nền quốc phòng vốn lạc hậu
[32].
Về viện trợ vũ khí, I.V. Stalin lập tức đồng ý, "sẵn sàng trang bị vũ khí cho khoảng 20 sư đoàn Quân chí nguyện Trung Quốc"[33]. Về đề nghị hỗ trợ không quân, I.V. Stalintrả lời: "Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dânTriều Tiên, nhưng cần có thời gian chuẩn bị"[34]. Câu trả lời của I.V. Stalin khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng thương vong lớn. Tại thời điểm Trung Quốc cần hơn bao giờ hết mọi sự giúp đỡ, việc Liên Xô từ chối yểm trợ không quân đã giáng một đòn chí tử vào liên minh Trung - Xô. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng nuốt trôi trái đắng của sự phản bội”[35] và không bao giờ có thể tha thứ cho điều đó. Nhà nghiên cứu Chen Jian khẳng định: “Có đầy đủ cơ sở để nói rằng, những mầm mống mâu thuẫn Trung - Xô trong tương lai đã được gieo từ những ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”[36].
Nuốt trái đắng, Mao Trạch Đông trì hoãn gửi quân đội đến Bắc Triều Tiên trong khi quân đội Hàn Quốc và Liên quân Liên Hợp Quốc đang trên đà tấn công uy hiếp. Trong tình thế không cho phép chần chừ hơn nữa, giữ nguyên kế hoạch đưa quân vào Bắc Triều Tiên, Chu Ân Lai (lúc này đang ở Liên Xô) được lệnh tiếp tục thuyết phục I.V. Stalin. Cuối cùng, ngày 18-10-1950, sau rất nhiều nỗ lực, Chu Ân Lai mang về lời hứa cung cấp viện trợ quân sự cần thiết và hỗ trợ không quân của Liên Xô
[37]. Ngày 19-10-1950, Chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, trực tiếp tham chiến đấu trên chiến trường Triều Tiên. Thực hiện thỏa thuận, ngày 1-11-1950, máy bay Không quân Liên Xô tham gia trận chiến đấu đầu tiên
[38]. Cuối tháng 11-1950, trên địa phận Trung Quốc, Quân đoàn phòng không Liên Xô số 64 được thành lập, có nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị quan trọng, các vị trí chiến lược quân sự trọng yếu của vùng Đông Bắc Trung Quốc và hậu phương của quân đội CHDCND Triều Tiên.
Sau khi Chí nguyện quân Trung Quốc và lực lượng phòng không - không quân Liên Xô nhập cuộc, cán cân quân sự trên chiến trường bắt đầu cân bằng, cuộc chiến diễn ra trong thế giằng co, rơi vào tình trạng bế tắc, việc kết thúc chiến tranh bằng giải pháp chính trị trở nên cấp thiết. Ngày 10-7-1951,tạiKaesong, Đại diệncủa các bên tham chiến bắt đầu các cuộc đàm phán và đến ngày 27-7-1953 ký kết thỏa thuận ngừng bắn.
Theo thống kê chính thức của Trung Quốc, chiến tranh Triều Tiên mang đi sinh mạng của 390.000 binh sĩ Trung Quốc; trong đó: 110.400 thiệt mạng trong chiến đấu, 21.600 chết vì thương vong, 13.000 chết vì bệnh tật, 25.600 mất tích. Ngoài ra, 260.000 người Trung Quốc mang thương tật vĩnh viễn, 14.000 tù binh Trung Quốc thay vào quyết định trở về đã dời đến Đài Loan
[39]. Tuy nhiên, theo số liệu của các nhà nghiên cứu Phương Tây, con số thiệt hại của quân đội Trung Quốc lớn hơn nhiều, vào khoảng từ 500.000 đến 1 triệu người.
Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung – Xô, làm cho quan hệ Xô –Trung vốn tiềm ẩn những bất ổn, chuyển hẳn sang trạng thái căng thẳng, mâu thuẫn, xấu đi nhanh chóng. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh không đáng tin cậy.
Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động và thái độ của Liên Xô: 1- Trung Quốc ngờ vực Liên Xô biến mình thành “tấm lá chắn an ninh” ở khu vực Đông Á; 2- Trái với mong đợi của Trung Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại, sau chiến tranh, Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu đô la[40];3- Cuộc chiến tranh mang tiếng chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, song phần lớn chi phí chiến tranh đè nặng trên vai người Trung Quốc, Liên Xô hỗ trợ ít ỏi và không kịp thời. Chiến tranh Triều Tiên còn buộc Trung Quốc phải hoãn lại kế hoạch giải phóng Đài Loan - thành lũy cuối cùng của Quốc Dân Đảng. Sau xung đột Triều Tiên, Hoa Kỳ xem xét lại chiến lược trong khu vực, tuyên bố sẵn sàng và kiên quyết bảo vệ Đài Loan nếu bị tấn công. Từ đó đến nay, Trung Quốc chưa có cơ hội thống nhất đất nước trọn vẹn như ý nguyện của Mao Trạch Đông.