Truyện kể trước ngày 27-7

Baby-shark

Bò lái xe
Năm đó, bác tôi 35 tuổi. 35 tuổi nhưng những người lính 17-18 đã gọi bác tôi là “bố”. Khi vào đến sông Thạch Hãn, đơn vị bác tôi mất 20% quân số. Vượt sông vào Thành cổ, chỉ sau một tuần, quân số chỉ còn lại cũng chừng đó.

Theo số liệu chính thức của quân đội sau này, mỗi ngày đêm, quân ta mất một đại đội trong Thành cổ.

Bác tôi kể, cuộc chiến trong Thành cổ cũng có những quy luật của nó. Cuộc sống của Thành cổ phụ thuộc toàn bộ vào bến vượt bên bờ sông Thạch Hãn.

Cứ đêm đến là có một dòng chảy thương binh từ Thành cổ ra bờ phía Bắc và một dòng chảy tiếp viện và súng đạn ngược lại vào Nam. Công binh đã kéo những sợi cáp ngầm dưới mặt nước để bộ đội bám vào khi vượt sông.

Pháo toạ độ căn thường xuyên trên khu vực đó và có nhiều tân binh chưa từng bắn một phát súng đã hy sinh ngay khi chưa đặt chân được lên bờ.

Vào ban ngày lính thuỷ quân lục chiến đánh dọc hai bên bờ sông để cắt bến vượt khỏi thành cổ. Có ngày nguy cấp, bên ta chỉ còn giữ được 50 mét bờ sông.

Cứ đêm xuống là các đơn vị trong Thành cổ lại phản kích đánh bật thuỷ quân lục chiến ra để giành lại một đoạn bờ sông chừng 500 mét. Sáng ra, mọi việc lại lặp lại như cũ.

Bác tôi nói: Ở Thành cổ, đôi khi các bên chỉ cách nhau một tầm lựu đạn ném. Vì vị trí quá gần nên khi đêm xuống pháo binh của quân đội Sài Gòn không thể sử dụng. Nhưng cũng vì vị trí quá gần nên khả năng giữ bí mật trước khi phản kích là hầu như không thể. Đơn vị bác tôi thường xuyên được sử dụng để tham gia các trận phản kích về đêm đó.

Chỉ có trận đánh trong đêm đầu tiên là đẫm máu. Vì địa hình hẹp, bắn xong không kịp lắp băng đạn nên đơn vị bác tôi đã lắp lê trước khi xung phong. Ai đã từng ở trong quân đội sẽ biết sự khác nhau lưỡi lê của súng trường K-44 (Mosin Nagan) và AK. Lê của súng K-44 có bốn cạnh, khi đâm sẽ xuyên thấu người và chỉ để lại một vết máu nhỏ như đồng xu. Lê của AK khi đâm vào người và xoay như hướng dẫn sẽ để lại một vết phá rất lớn.

Ngày hôm sau, khi tái chiếm lại trận địa, binh lính bên kia nhìn thấy kết quả của trận xáp lá cà đêm trước – và đêm xuống, khi tiếng hô của đơn vị bác tôi truyền dọc chiến hào “Lắp lê!” họ bắn vài loạt đạn rồi rút. Và sự việc cứ diễn ra như vậy về đêm, như có một thoả thuận ngầm.

Đơn vị bác tôi hô vang “lắp lê” và đợi vài phút, sau đó bên kia sẽ bắn đổ đạn một hồi rồi rời khỏi trận địa. Sáng ra, pháo lại dội và họ lại tái chiếm chỗ cũ.

Bác tôi là một trong những người cuối cùng rút ra khỏi Thành cổ, bơi vượt sông Thạch Hãn về lại bờ Bắc. Đơn vị bác tôi còn lại 40 người khi vượt sông, trong số đó chỉ có 16 người là lành lặn. Trong danh sách quân lực của trung đoàn bác tôi, quân số gấp 7 lần khi mới vào trận.

Bác tôi kể, người chỉ huy già của bác tôi, sau này hoà bình, khi gặp đám tân binh còn lại của hồi đó lần nào cũng khóc: “Ngày ấy chúng mày chết nhiều quá, có oán bố không?”.

Khi tôi kể cho bác nghe về một câu chuyện trên báo Thanh Niên, trong đó người liệt sỹ đêm trước khi hy sinh đã viết cho vợ chưa cưới chỉ dẫn rõ nơi anh sẽ nằm xuống để sau này hoà bình lập lại mà tìm. Bài báo viết rằng đó là một dự cảm huyền bí, kỳ lạ của người nằm xuống. Bác tôi cười mếu máo: “Con ơi, có gì lạ đâu, chỗ đó là bến đáp của Thành cổ, hết lớp này đến lớp khác hy sinh nơi đó, có gì là lạ đâu?".

Bác tôi không thích bài “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của Phạm Tiến Duật. Bác bảo: Nhà thơ có cách nhìn của họ, bác là người lính, những con đường ra trận của bác thấy toàn máu, kiệt lực, mồ hôi và nước mắt. Điều khác biệt là dù như thế, chúng ta vẫn cứ đi vì không có con đường nào khác.

Bác cũng từ chối khi tôi muốn mua tặng bác một cuốn nhật ký nổi tiếng của một người lính trẻ tuổi hai mươi.

Bác tôi từ chối và nói với tôi rằng: “Con ạ, chính bác đã đi trên con đường của cuốn nhật ký đó. Đến giờ, bác chỉ tiếc rằng ngày đó bác không rèn được quân nghiêm hơn nữa. Nếu thế, chắc các bác không phải khóc “ngày ấy chúng mày chết nhiều quá, có oán bố không?”.

Bác tôi thẫn thờ nhìn dãy núi Trường Sơn xa xa và nói: “Ông Phạm Tiến Duật là nhà thơ, viết là vũ khí của ông ấy. Tụi lính sinh viên của bác cũng thế, lãng mạn và nhiều hoài bão. Nhưng bác là một người lính, bác chỉ tiếc là ngày đó, giá như mình nghiêm hơn nữa, ‘ác’ hơn nữa. Nếu thế, chắc nhiều đứa giờ này còn sống"...
---
* Nguồn: Bao Anh Thai
* Hình: Khu mộ liệt sĩ quê Hải Phòng, tại NTLS Trường Sơn.
707D50C1-97A6-4453-A3F1-0330C94EA54E.png
-MTH-
 
T tri ân và biết ơn bác m.đã sẵn sàng hi sinh xương máu để bảo vệ TỔ QUỐC. Chúc bác m luôn mạnh khoẻ nhé
 
Những người tham gia giữ thành cổ Quảng Trị mà còn sống, bây giờ ít và hiếm lắm. Bố tao mới đi kỉ niệm trong Quảng Trị về tuần trước. Cũng rất nhiều người, nhưng k thể gặp đồng đội cùng đơn vị, vì gần như đã không còn. Sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị là nơi nướng vô cùng nhiều quân của ta, cuối cùng chẳng giành được cái gì cả. Đây là một trong những sai lầm to lớn, cùng với năm 1968. Giờ mỗi lần hỏi về mấy trận chiến đấy, bố tao thường không muốn trả lời.
 
T cũng từng nghe 1 cựu binh kể về vụ Thành cổ Quảng Trị, nghe bảo bên mình số người nằm xuống ở đấy còn nhiều hơn cả Khe Sanh.
Theo chỉ đạo từ trên là bằng mọi giá phải giữ đc Thành Cổ để bên trên còn có tiếng nói trong hiệp định Paris chứ nếu mà mất là coi xong. Thế nên mới nướng nhiều quân ở Thành cổ như thế.
 
thì cũng như severodonetsk thôi, nghe bảo 1 ngày chết 200 lính cũng tương tự, còn bọn Đức Pháp nó nướng quân Verdun thì cả chục ngàn thằng 1 ngày nhá, khỏi phải kể lể
 
Dài vc đéo đọc
:vozvn (24)::vozvn (24)::vozvn (24):đánh dấu dây chờ mấy con lợn 3 sọc vào cắn
T cũng từng nghe 1 cựu binh kể về vụ Thành cổ Quảng Trị, nghe bảo bên mình số người nằm xuống ở đấy còn nhiều hơn cả Khe Sanh.
Theo chỉ đạo từ trên là bằng mọi giá phải giữ đc Thành Cổ để bên trên còn có tiếng nói trong hiệp định Paris chứ nếu mà mất là coi xong. Thế nên mới nướng nhiều quân ở Thành cổ như thế.
Người chiến sĩ hi sinh quá nhiều để bây giờ lũ sâu mọt đục khoét phá nát từ từ.
dự là bọn red bull sẽ vào chửi ông thớt là 3|
bác nó còn đường lê dìa quê chứ bác nhiều tml nằm lại vĩnh viễn hoạc mất xác cmnr
 
bác nó còn đường lê dìa quê chứ bác nhiều tml nằm lại vĩnh viễn hoạc mất xác cmnr

quảng trị chết nhiều nhất lúc vượt sông, vì ở trên sông mày ko núp vào đâu được, khi đạn delay nó nổ dưới nước thì sóng xung kích lan truyền mạnh và xa hơn rất nhiều so với ở trên cạn. Chưa kể địa hình sông trống trải, C130 nhìn ở trên trời xuống bằng kính ảnh nhiệt rõ như ban ngày , nó chỉ cần dã 1 phát 40mm cách người 10m thôi là nát nội tạng hoặc ngất xỉu rồi.
 
Vừa đi với đoàn của tỉnh vào nghĩa trang Trường Sơn sáng nay .Đi không biết bao nhiêu lần rồi mà không bút nào tả hết nhất là đối với thế hệ trẻ như chúng mình.
 
CHUYỆN KỂ TRƯỚC NGÀY 27.7 (2)

… Tổ 3 người chúng tôi đi trinh sát lúc nửa đêm. Khi rút kìm cộng lực cắt dây thép gai, tay tôi đã quờ phải quả mìn, địch đặt bẫy. Tiếng nổ vang trời, tôi đau như xé lồng ngực.

Tôi giơ bàn tay lên. Không thấy bàn tay đâu nữa. Giơ bàn tay còn lại, bàn tay cũng mất rồi. Máu trong tai chảy xuống cổ.

Địch trong đồn ào ra bắn xối xả. Chân trái tôi tiếp tục trúng đạn. Người anh đi cùng nằm xoài ra, có lẽ đã chết.

Có lẽ vì mắt tôi bị ám khói mờ dần, không nhìn thấy gì nữa. Có lẽ vì Khánh đã kéo tôi ra và cõng tôi chạy ngay lúc đó. Trong mù mịt khói đạn, Khánh rút dao găm chặt những dây rợ lùng nhùng ở ống tay tôi và băng bó lại. Khánh nhỏ gầy cõng tôi quá sức.

Tôi khóc thét vì đau đớn không chịu nổi: “Thả xuống đi, đằng nào cũng chết”. Khánh bảo: “Mày cố lên, tao phải đem bằng được mày ra. Mày chết tao cũng phải đem bằng được xác mày ra. Chết thì 2 thằng cùng chết, tao không sợ”…

Khánh tải tôi trên lưng, khóc tu tu. Tôi nghĩ: "Rồi mình cũng chết ở đây, chứ sống làm sao được nữa?".

Bay mất 2 bàn tay, tôi tiếc ngơ ngẩn vì không được đi đánh tiếp. Thời gian ở chiến trường quá ít. Thấy giặc hung hăng, chỉ muốn tiêu diệt. Một đời hắn không biết mình. Mình không biết hắn. Nhưng nghe đài báo nói thì lòng nổi căm thù. Nguyện vọng tôi muốn chiến đấu đến khi toàn thắng trở về.

Tôi giờ nằm đây, 2 tay cứng đờ, 1 chân không cựa quậy được, tai nghe không rõ. 1 con mắt bị mờ.

Tôi giờ trở thành người vô dụng. Ăn phải có người xúc. Mặt phải có người lau cho. Giá đem đó Khánh đừng cố đưa tôi ra bằng được. Chết đi tôi không phải chịu đau đớn thế này. Chết trong tình cảnh đó, tôi cũng hạnh phúc.

Bác sĩ cắt thêm 1 phần tay để có da bọc vết thương. Tiếp tục chẻ cánh tay. Chẻ tạo hình thay thế bàn tay để tôi có thể luyện tập cầm thìa cầm bút. Mỗi lần đụng đến dao kéo, cơn đau trở lại như cái đêm chạm phải mìn.

Một bác lăn xe lại bên giường tôi nằm. Bác nói từng lời chậm rãi cho tôi có thể nghe được. Tôi căng đầu nhìn khuôn miệng bác để đoán lời. Sợ tôi không nghe rõ, đôi đoạn bác phải dùng giấy viết:

“Trẻ trung đẹp trai thế này mà khóc lóc buồn bã cả ngày là sao. Tôi đây này, 2 chân teo, đi xe lăn hơn 20 năm rồi mà vẫn gắng gượng để sống. Cứ yên tâm mà điều trị, vết thương rồi sẽ lành, sức khỏe rồi sẽ hồi phục, tương lai rồi sẽ có. Những người hy sinh thì sao? Mình vẫn được sống, về đây nằm với anh em là may hơn họ rồi. Có người chỉ mang 1 nửa thân hình về mà họ vẫn phải sống kia kìa”…

Bác nói xong tôi càng khóc mạnh. Bác đã hiểu tâm trí tôi. Tôi nghĩ đến người anh đã nằm lại đêm đó, Tôi không biết anh đã chết hay chưa. Nếu còn cơ hội sống, có ai tìm thấy anh để băng bó đưa về như Khánh đã làm với tôi.

Tôi nghĩ lại thấy mình đã là người may mắn.

Nửa năm luyên tập, tôi đã xúc được cơm ăn. Các vết thương lành, ổn định, tôi viết được cả báo tường. Tôi thành người đi động viên những anh em mới vào đừng tuyệt vọng.

Cạnh giường tôi nằm, 1 anh có mảnh kim khí nằm ở bán cầu đại não. Những khi tỉnh táo, anh đọc thư tình. Giọng anh truyền cảm rung động. Trong 1 cơn co giật tái phát, anh đã chết. Anh là sinh viên năm cuối trường đại học Tổng hợp xung phong ra trận năm 1971.

Trên mỗi giường bệnh là 1 trạng thái: Cháy nửa người vì bom napan. Cụt 2 chân. Mất nửa khuôn mặt…

Tôi trở về, tôi không bỏ xác trong rừng. Vậy mà sao cha mẹ tôi lại buồn? Họ thở ra thở vào. Họ nhìn tôi ái ngại. Tôi mới 23 tuổi, tôi phải làm ăn. Tôi sẽ làm ăn theo kiểu gì đây khi bàn tay không còn nữa? Cày ruộng kiểu gì, tát nước kiểu gì? Tôi chỉ còn làm được mỗi việc chăn bò. Nhà chỉ có1 con bò, chẳng đến lượt tôi phải làm.

Tôi đi sang hàng xóm chơi. Ở nhà ngột ngạt quá. Bác hàng xóm tưởng tôi sang cưa con gái họ. Cô gái trốn trong nhà như thể tôi sang bắt cô về làm vợ. Tôi đi đến những gia đình không có người con gái. Đỡ phải nghe những lời khách khí.

Tôi ra ga chợ Huyện, theo tàu ra Vinh. Xem người ta mua bán gì được thì làm theo. Chuyến đi nào cũng gặp cô gái đó. Cô gái xuống ga Yên Xuân, tôi cũng xuống theo. Hết giờ tàu về Hương Khê rồi, cô gái mời tôi về nhà mình…Cô nói cô muốn lấy tôi. Cô thương tôi. Sống với tôi, cô không còn mặc cảm.

Tôi đưa cô về nhà. Cha mẹ tôi như trút được gánh nặng.
***
Một buổi trưa hè năm 1982. Trung đang nằm trên ghế. Vợ nhổ lạc sau vườn, các con đi chơi. 1 người lạ đến nhà:
- Anh có phải Nguyễn Kim Trung không?
- Phải.
- Mày không nhớ tao à?
- Tôi chịu
- Mày bị thương trong 1 đêm đi trinh sát ở Quảng Trị đúng không?
- Đúng.
- Đại đội trưởng là Nguyễn Hữu Kim đúng không?
- Đúng.
- Đêm đó ai băng bó cho mày? Chính tao đây. Tao không biết mày còn sống hay đã chết. Đêm nằm tao cứ nghĩ đến tiếng khóc của mày!..

Trung khóc rống lên. Khánh cũng khóc. Đêm Thành Cổ năm xưa hiện về. Họ kết nghĩa tình thân. Khánh nhận làm cha đỡ đầu đứa con gái của Trung.
---
* Cựu chiến binh – thương binh Nguyễn Kim Trung (hiện đang sống ở xã Hương Xuân, Hương Khê, Hà Tĩnh); Đừng kể tên tôi, Phan Thúy Hà; NXB Phụ nữ, 2020.
 
Chỉ có bọn ngu đéo có lý luận mới đi chửi đổng. Tao là người bắc có lý luận chấp đéo gì mấy con bò
Lí luận với người biết điều chứ đéo ai lí luận với súc vật khát nước ?
 
Cty cũ t làm có ông thoát chết ở trận địa này. Ổ có lệnh lên thuyền rồi song bất ngờ đc giữ lại để bảo vệ 1 lãnh đạo cấp cao nên thoát dính đạn.
Ông kể thuyền ấy bị địch hạ hết ko ai trở về
Nghe ô kể mà hãi
Cả vị xuyên nữa các m nhé!
 
Lí luận với người biết điều chứ đéo ai lí luận với súc vật khát nước ?
Đéo có lý luận chỉ biết chửi đổng bảo sao bị gọi là bò. Thật bất hạnh cho đấng sinh thành ra m đẻ ra con người cho ăn cho học thế đéo nào lại thành con bò. Gia môn bất hạnh
 
Thằng nào cũng bảo vào nghĩa trang Trường Sơn ra thấy vô cùng cảm động. Xong về ăn đớp như thường, đm còn đẻ ra cả cái vụ Việt Á. Đúng là cái lưỡi không xương.
 
Những người tham gia giữ thành cổ Quảng Trị mà còn sống, bây giờ ít và hiếm lắm. Bố tao mới đi kỉ niệm trong Quảng Trị về tuần trước. Cũng rất nhiều người, nhưng k thể gặp đồng đội cùng đơn vị, vì gần như đã không còn. Sông Thạch Hãn, Thành cổ Quảng Trị là nơi nướng vô cùng nhiều quân của ta, cuối cùng chẳng giành được cái gì cả. Đây là một trong những sai lầm to lớn, cùng với năm 1968. Giờ mỗi lần hỏi về mấy trận chiến đấy, bố tao thường không muốn trả lời.
Og già t cũng mới đi về TC QT về, chỉ ngại các cụ bây h có tuổi hết rồi, chứ năm nào tới dịp cũng nhắc,
Bạn og tao là chủ nhân bài bất hủ ấy, mà cùng quê
 
Top