TẠI SAO ĐẠO PHẬT BỊ DIỆT VONG Ở NGAY QUÊ HƯƠNG ĐỨC PHẬT ? @Olineasdf , @dungdamchemnhau
Chúng ta thấy rằng, Đạo Phật ngày nay phát triển trên thế giới, nhưng ngay từ xa xưa, Đạo Phật của ngài Thích Ca lại bị diệt vong ngay trên xứ xở của mình ? Tại sao chia rẽ giáo phái nguyên thủy giữ nguyên truyền thống ? Tại sao có chiều hướng giáo pháp Đại thừa nghiêng về thần quyền và tư tưởng Bà La Môn ? Tại sao ngày nay, những vùng ven giáp ranh Ấn Độ , quanh Himalaya, lại chỉ có giáo pháp Đại thừa phát triển ?.....
Tao có đọc rất sâu, chiêm nghiệm thực tế về nền văn minh sông Hằng, về lịch sử, về tư tưởng, đời sống, văn hóa, sự phân chia giai cấp, xã hội của người Ấn, và những lịch sử, tư liệu về Phật giáo, về các tôn giáo của Ấn Độ như Ấn giáo, bà La Môn giáo, đạo sikh, thiên chúa giáo..... Hãy mường tượng và chắp nối logic thật khoa học tất cả mọi vấn đề xâu chuỗi lại với nhau trong cái tổng thể, ta có thể suy luận như sau:
Vào thời Đức Phật tại thế. Xã hội Ấn Độ cổ đại chia làm 4 giai cấp chính: Đứng đầu là các vương tôn, thế tộc, đứng thứ hai có quyền năng là các Bà La Môn, Đứng thứ ba là tầng lớp bình dân, và cuối cùng là tầng lớp tiện dân, nô lệ.
Do quyền lực chi phối lợi ích đời sống rõ rệt như vậy, thì sự bình đẳng trong xã hội là hoàn toàn không có, các vương tôn và Bà La môn cấu kết với nhau ( Thế quyền + Thần quyền) để cai trị dân chúng vì lợi ích. Dân chúng được dạy dỗ hiến dâng cung phụng cho các đấng vương và thần linh, điều này còn ăn sâu gốc rễ đến tận ngày nay, bởi các dòng họ vương tộc vẫn đang được trọng vọng ở người Ấn, nhiều người vì quyền bình đẳng trong xã hội hiện đại, đã xin từ bỏ họ của mình.
Ở trong 1 xã hội như vậy, mà xuất hiện 1 hệ tư tưởng bình đẳng, vô thần linh của ngài Thích Ca, ngài chủ trương đến sự nhân văn, bình đẳng giữa mọi người, lấy nỗ lực tự thân làm hạnh phúc mà không thừa nhận hệ thống thần linh giáo, thì chả khác nào đụng chạm đến quyền lợi của Vương Tôn và giới Bà la Môn, nên ngài phải chịu sự phỉ báng, chống đối, âm mưu giết hại, lật đổ, dìm chết đạo Thích Ca của thế lực cầm quyền và giới tu sĩ Bà La Môn. Điều này đã thể hiện ngay trong những kinh luận cổ xưa.
Nhưng các thế lực ở thời Phật tại thế không làm gì được, bởi vì dân chúng lớp bình dân và tiện dân ra sức ủng hộ và tán thán, bên cạnh đó, Phật và các đại đệ tử hầu hết là xuất thân từ dòng vương tôn, có uy quyền, nên các thế lực chống đối cũng không dám đụng chạm nhiều, mà chỉ tranh đua phản biện ở học thuyết giữa các giáo pháp.
Sau khi Phật nhập diệt, các đại đệ tử nòng cốt lần lượt ra đi, giới vương tôn và Bà La môn đã có cơ hội ra sức cấu kết, nhằm xóa bỏ đạo Phật. Vì đạo Phật còn đang là 1 trào lưu trong dân chúng, nên không thể đàn áp, mà ban đầu chúng tận dụng những sự tiến bộ, những tư tưởng nhân văn của đạo Phật vào trong giáo lý Bà La Môn để lôi kéo dân chúng về phía mình, sau đến là mua chuộc các tu sĩ Phật giáo, nên Đạo Phật bắt đầu suy vi, chia rẽ vì quyền lợi của các nhóm lợi ích ( Điều này có trong những câu chuyện về điển tích, những vị tranh cãi về quyền lợi của tu sĩ). Những tu sĩ tham danh vọng, bắt đầu cách tân, sửa đổi giáo lý để tồn tại.
Đặc biệt, sau sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ kỳ, ra sức giết hại tu sĩ và phật tử Phật giáo để cải sang đạo Hồi, thì đạo Phật càng thêm hoang tàn.
Những giai đoạn sau, đạo Phật vì nhiều lí do đã suy vi tại Ấn Độ, giới cầm quyền và Bà la Môn đã ra sức đàn áp, bôi nhọ, cưỡng ép, dọa dẫm dân chúng từ bỏ Phật giáo. Có những điều luật rất hà khắc như: Ai nói chuyện với phật tử, thì bị xử tội. Ai chạm vào người phật tử thì phải súc rửa tay năm lần.....
Trước những sự tồn vong như vậy, Đạo Phật bắt đầu phải cách tân theo chiều hướng ôn hòa với Bà La Môn giáo, những học thuyết không còn yêu cầu phải xả bỏ danh vọng, đời hòa với đạo, thế quyền và thần quyền dung hòa về lợi ích, để tồn tại trong môi trường khắc nghiệt, nên Đạo Phật bắt đầu chia rẽ mạnh mẽ thành hai giáo phái: Đại thừa và tiểu thừa.
Đại thừa xuất hiện với tư tưởng dung hòa, gắn lẫn xen cả tư tưởng nhập thế, và những hệ thống thần quyền Bà La Môn để tồn tại. Còn những người hệ phái nguyên thủy, muốn giữ nguyên truyền thống và tư tưởng của Thế Tôn, nên bị các thế lực ra sức chèn ép, bôi nhọ, và đặt cho cái tên là: Tiểu thừa.
Hệ phái đại thừa bắt đầu được dung dưỡng, phát triển, tuy nhiên cũng khó khăn, nên phải phát triển lan tỏa ra các vùng lân cận ven Himalaya, vì những vùng đó, hệ tư tưởng của giới cầm quyền và tăng sĩ Bà La Môn ít cai quản khắc nghiệt. Và từ bên dãy Himalaya đó, lan truyền sang Trung Quốc và lan ra Châu á.
Hệ phái nguyên thủy trước sự đàn áp gắt gao, nên cũng ra đi khỏi Ấn Độ, thậm chí không còn được dung thân ở ven Ấn Độ, nên lánh xa và tìm những vùng đất mới xa Ấn Độ, phát triển mạnh ở các nước đông nam á.
Điều này lí giải tại sao Đạo Phật ở Ấn Độ bị diệt vong, chỉ còn tồn tại ở các quốc gia lân cận vùng Himalạya.
Xét về hai hệ phái Đại thừa và nguyên thủy ( Tiểu thừa), thì gần như là hai giáo pháp khác biệt hẳn nhau, tuy có những sự đồng điệu về nền giáo dục đạo đức truyền thống, nhưng giáo pháp và sự hành trì khác biệt hẳn. Một bên theo hệ tư tưởng nghiêng về sự hòa nhập thế tục và thần quyền, đa thần, sự xả ly thế tục không cần chú trọng, một bên giữ nguyên truyền thống hành trì, vô thần, lấy giáo lý nguyên bản, lấy đời sống khất thực truyền thống, lấy Bát Chánh đạo làm căn bản của sự giải thoát.
Đặc biệt, Phật giáo đại thừa truyền qua Trung Quốc, một quốc gia gắn với sự cai trị của nhà cầm quyền vua chúa phong kiến, thì sự liên kết thế quyền và thần quyền để thực hiện chính sách cai trị càng bộc lộ rõ nét. Đạo Phật Trung Hoa truyền bá sang Việt Nam cũng chính từ con đường đô hộ và cai trị đồng hóa về văn hóa với tư tưởng nho, lão.
Phật giáo sang đến Trung Quốc hình thành nhiều vị Tổ dựa trên một điển tích dân gian (sự kiện này không có trong Kinh điển) là Phật "chuyển giao quyền lực" cho ngài Ca Diếp và sau đó ngài Ca Diếp truyền nối tiếp đến các vị Tổ Trung Hoa nhưng thực tế Phật luôn nhắc nhở trong Kinh điển, ngài không phải là người thống lĩnh tăng đoàn mà chỉ đóng vai trò một vị thầy và sau Phật cũng sẽ không có ai phụ trách vai trò như vậy cả, ngài lo sợ rằng nếu có người thâu tóm quyền lực sẽ gây ra nũng loạn, điều đó thể hiện rõ ở lơi di chúc của ngài với các đệ tử "Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giáo Pháp và Giới Luật của ta làm Thầy và làm chỗ nương tựa vững chắc để tu hành sau khi ta tịch diệt". Sau này tơi vị tổ thứ 6 là ngài Huệ Năng thấy được sự tai hại của việc này khiến bao người tranh chấp ngôi vị Tổ sư mà đấu đá lẫn nhau, chính sự đấu đá ấy đã khiến ngài phải lưu lạc ẩn náu hơn chục năm trong rừng mới có thể trở về. Ngài cũng là người đã chấm dứt truyền thống này, Tổ Huệ Năng như vậy cũng là vị tổ cuối cùng của Phật Giáo Trung Quốc, ngài có căn dặn đệ tử sau ngài sẽ không có một ai trở thành tổ sư dưới vai trò lãnh tụ Phật Giáo nữa.
Cũng tương tự như vậy khi sang dãy Himalaya Phật giáo trơ thành Lama giáo, tầng lớp ấy nắm vai trò quan trọng trong thể chế chính trị như các nhà thần quyền Bà La môn, các vị Lama đồng thời đều trở thành lãnh đạo tinh thần hoặc thành vua của nước đó như Tây Tạng, các vị Lama tái sinh nối tiếp nhau để lãnh đạo đất nước, ở Nepal có nhiều vị Pháp Vương nắm vai trò quan trọng trong tín đồ như một vị Giáo Chủ được kế thừa ngôi vị thông qua việc tìm kiếm sự tái sinh. Việc dùng tôn giáo để kết hợp với tầng lớp vua chúa làm lớp đệm, quyền lực mềm cai trị quần chúng đã xuất hiện rất lâu và điều đó cũng không còn xa lạ gì, chính điều đó đã gây nên nhiều sự thương tâm khi quyền lực ấy rơi vào tay người xấu như Thập tự chinh hay các quốc gia Hồi giáo mở những cuộc thánh chiến. Mới đây đức Dalai Lama 14 đã tuyên bố chấm dứt tái sinh trở lại vì e sợ Trung Quốc sẽ dựng lên một vị Lama của họ sau khi ngài Dalai Lama 14 thị tịch như họ đã từng làm với Ban Thiền Lama (chức vụ này có vai trò đi tìm tái sinh của ngài Dalai Lama quá cố) và Karmapa (khiến hiện nay xuất hiện tới hai ngài Karmapa).
Nên hiểu lịch sử văn hóa, và hệ thống kinh điển, cũng như hệ tư tưởng các tôn giáo, sẽ cho ta cái nhìn rõ nét về lịch sử của đạo Phật.