cons
Địt mẹ đau lòng
yeah, nhưng sớ tâu hay văn bản vẫn đều dùng niên hiệu của vua Lê.Trích Đại Nam Thực Lục
Giáp tý, năm thứ 6 [1744], mùa hạ, tháng 4. Bấy giờ có điềm tốt cây sung nở hoa, bầy tôi là bọn Nguyễn Đăng Thịnh đãng biểu xin chúa lên ngôi vương (Đại lược nói rằng : Chính danh phận khi nước buổi đầu đổi mới, sửa lễ nhạc sau khi tích đức trăm năm. Lại nói: Nghiệp bả vững bền, miền Đông Nam cờ vàng xuất hiện; triệu vương rộng thấy, bên Vị bắc ẩn ngọc rùi ngay. Bầy tôi sắp hàng mà trần tình: Các sao đã chầu về Tử vi(1. Tử vi: Một chòm sao ở bắc cực, tượng trưng ngôi vua. 1); mặt trời đã lên đến Hoàng đạo (2. Hoàng đạo Theo thiên văn xưa, là đường đi của mặt trời, ví với đạo làm vua. 2). Chỉ với 70 dặm bờ cõi. [nhà Thương) đã dựng nền huyền điều(3. Huyền điều : Bà Giản Địch nuốt trứng chim Huyền diệu mà đẻ ra thủy tổ nhà Thương. 3), huống hồ 3.000 dặm dư đồ, sao còn đứng địa vị hoàn khuê (4. Hoàn khuê: Cái hốt bằng ngọc khuê, tước công cầm khi chầu vua. 4)7.
Chúa nhún nhường không chịu nhận. Bầy tôi hai ba lần nài xin, chúa mới theo.
Ngày Canh tuất, đúc ấn quốc vương (Trước thì khi bỏ dùng quan lại chỉ dùng chữ "thị phó", dưới kiềm dầu "Thái phó quốc công", và dùng ẩn “Tổng trấn tưởng quân"),
Ngày Kỷ mùi, chúa lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân. Xuống chiếu đại xá trong nước. Chiếu rằng : “Trời đất thí nhân coi mở, khắp bờ cõi đều thấm nhuần; nhà vua thuận đạo lên ngôi, mọi người vật đều đổi mới. Vàng ngọc rực rỡ, lới tơ truyền xa. Nhà nước ta, phát tích
Ô châu, vâng mệnh dựng nước. Hoàng tổ một phương hùng cứ, đã có được một nửa non sông: Thân tông bày huyện mở mang (1. Bày huyện: Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền, Vũ Xương, Hải Lăng, Lệ Thủy, Khang Lộc. 1), sắp thu cá đất đai gấm vóc. Nghiệp bả đường kinh doanh lớn; ơn trời giúp mở rộng thêm. Mình miều (2. Mình miều: Hiếu minh hoàng để.2) vũ uy, dẹp yên giặc chồn Đông Phố, hoàng khảo (3. Hoàng khảo: Người sinh ra vua, tức Hiểu ninh hoàng để Nguyễn Phước Chu. 3) văn trị trau chuốt lòng dân miền Nam. Bốn phương nhờ ơn ; đời đời để đức. Phong thư vào ngọc kiểm (4. Ngọc kiểm: Nắp hòm sách dát ngọc, xưa nhà vua khắc đá ghi thành công, bỏ vào hòm đậy nắp như thế phong lại. 4), nguyện vọng non sông còn chờ, chưa đổi bực hoàn khuê (5. Hoàn khuê: Xem chú ở tr.150.5), tấm lòng quỷ hoắc (6. Quỹ hoặc: Lông hướng về vua Lê, như hoa quỹ lá hoặc hướng về ánh mặt trời. 6) giữ mãi, nay ta tuổi trẻ, vâng nối nghiệp xưa, mới cầm quyền chính bảy năm, chưa có uy quân tháng sáu (7. Tuyên vương Tĩnh nhả Chu, tháng sáu cất quân đánh giặc Nghiễm Doãn, thành công, người ta làm thơ thuật lại chiến sự, tức là bài "Lục nguyệt" trong Tiểu nhã Kinh Thi.7). Thầm nghĩ nước chưa thống nhất, giặc chưa đẹp yên, vẫn gắng nơi theo tiên tổ. Ngờ đâu người đều đồng tâm, thần bảo điềm tốt, ân cần khuyên giục xưng vương. Vừa rồi lớn nhỏ đều tin, thứ hàng đầy đủ. Theo hào bốn quẻ Kiền, rồng hoặc đã nhày, còn chờ thời nên khiêm tốn; theo hào ba quẻ Khôn, ngựa lợi đi nhanh, nên tất cả đều tôn phò. Mặc dầu thoái thác ba bốn lần, khó ngăn được thần dân nguyện vọng. Ta đành buộc lòng, thuận theo ý chúng. Cho nên ngày 12 tháng 4 năm nay lên ngôi vương, đại xá trong nước, để tăng thêm ơn đức của tám đời, để tỏ lòng lợi dân trong bốn cõi
Nguyễn Phúc Khoát là quốc vương tự lập quốc tự xưng vương
Khác xa so với thân vương của chúa Trịnh
Quan hệ với vua Lê chỉ là danh nghĩa
Như các nước thời chiến quốc vẫn là thần tử nhà Chu nhưng họ có nước riêng rồi
về ngoại giao bên ngoài, các nước, cũng chỉ nhìn thấy mỗi 1 Đại Việt của nhà Lê. thằng nào là đệ thì tự biết đại ca là ai, nhưng luật chơi với sách sử đéo ai dám phá

vì đây chính là ranh giới cuối cùng, dám không dùng niên hiệu vua Lê, Đàng Ngoài có cớ xin quân Thanh ra càn cho 3 phút là nát hết.
nên phải tới thời Gia Long được sắc phong, chính danh đủ rồi thì mới dám truy ngược về để công nhận với phong miếu hiệu.
còn thời xuân thu, nhà Chu là cắt phong vương, có văn bản công chứng đàng hoàng. số lượng các nước chỉ giảm đi chứ đâu có tăng lên


